KHÁI QUÁT VỀ TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI CỦA XÃ HƯƠNG THỦY
I. TỰ NHIÊN VÀ HÀNH CHÍNH
Hương Thủy là xã miền núi, nằm về phía Đông Bắc của huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Phía Bắc giáp xã Hà Linh, phía Đông giáp xã Hương Giang và huyện Thạch Hà, phía Tây giáp xã Hương Bình và xã Phúc Đồng, phía Nam giáp xã Gia Phố và Hương Long.
Địa hình của Hương Thủy nghiêng từ Đông sang Tây vàNamxuống Bắc. Là một xã bán sơn địa, núi thấp bao bọc xung quanh tạo thành một thung lũng khá bằng phẳng đan xen với các đồi, núi nhỏ và thấp.
Diện tích tự nhiên của Hương Thủy có 5.611,7 ha, trong đó đất nông nghiệp 4.736,84 ha (84,41%), đất phi nông nghiệp 134,09 ha (2,39%), đất chưa sử dụng 740,79 ha (13,20%). Xưa rừng Hương Thủy có nhiều gỗ quý, có giá trị cao như lim, táu, kền kền, dổi, vàng tâm,…; nhiều cây dược liệu như Hà thủ ô, Thiên niên kiện,...; nhiều động vật quý hiếm hổ, gấu, vượn, hươu, chim công và rất nhiều loài chim khác sống thành từng đàn. Đồi trọc ở Hương Thủy phù hợp trồng các loại cây lưu niên, cây ăn quả, cây công nghiệp và cây chăn nuôi. Đất đai Hương Thủy thích ứng với nhiều cây ăn quả như bưởi, cam, mít, cau…; cây công nghiệp như cao su, keo.
Khí hậu Hương Thủy có bốn mùa, trong đó mùa xuân thường có gió rét, mưa phùn; mùa hè nóng oi bức, có gió Lào; mùa thu hay có mưa to, gió lớn, bão, lũ; mùa đông khô hanh. Nhiệt độ bình quân hàng năm ở đây khoảng 240C. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.700 – 2.500mm, cao nhất là tháng 9 và 10. Mùa gió đông bắc thổi (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau) thường gây ra mưa phùn, rét, nhiệt độ thấp nhất xuống dưới 100C. Mùa gió phơn Tây Nam thổi (từ tháng 4 đến tháng 8) thường gây ra khí hậu khô và nóng bức, nhiệt độ có ngày vượt quá 400C.
Trên địa bàn Hương Thủy, mật độ sông suối ao hồ khá dày đặc. Ngoài con sông Ngàn Sâu là sông chính chảy qua xã, các khe suối khá nhiều như khe cầu Trộ, khe Trường, khe Cầu Đất, khe Cầu Tân, khe Làng Rưng... Đặc điểm nổi bật của các sông, suối nơi đây là lượng nước có sự phân mùa rõ rệt. Về mùa mưa thường gây lũ, lụt, làm thiệt hại mùa màng và đời sống cho người dân. Về mùa khô, các sông suối đều bị cạn nước, nên lượng nước cung cấp cho sinh hoạt và sản xuất bị thiếu trầm trọng. Để đảm bảo lượng nước cần thiết, phải xây dựng hệ thống đập thủy nông.
Lòng đất Hương Thủy có nhiều khoáng sản quý. Mỏ than Động đỏ có tổng diện tích 36 km2, trữ lượng ước tính từ 6 đến 8 triệu tấn nằm trên địa phận Hương Thủy, Hương Giang và Hà Linh. Ngoài ra còn có sa khoáng như vàng, sắt, đồng nhưng không đáng kể.
Về giao thông, Hương Thủy có 7 km đường bộ 15A kéo dài từ cầu Chợ Vạn (địa giới hành chính giữa xã Hương Thủy với xã Gia Phố) tới ngã tư Địa Lợi, 7 km đường sắt và 1 ga tàu (ga Chu Lễ), 8 km đường sông Ngàn Sâu, 3 cầu đường sắt (cầu 30 Thước, cầu Truồng Lợn, cầu Hối Hối), 4 cầu đường bộ chính, cùng các trọng điểm: ngã ba Thủy Lâm, ga tàu Chu Lễ, Phà Địa Lợi, Ngã tư Địa Lợi. Ngoài ra, hệ thống đường giao thông liên thôn, lên xã liên tục được mở rộng, nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi để Hương Thủy phát triển giao thương với các địa phương trong tỉnh và các vùng, miền khác trong cả nước.
Về hành chính, vùng Hương Khê thời xa xưa thuộc bộ Việt Thường. Thời thuộc Ngô (đầu Công nguyên) gọi là Nam Lăng, đến thời nhà Lý gọi là Đỗ Gia. Thời thuộc Minh gọi là huyện Thổ Hoàng (gồm cả Hương Sơn), rồi tổng Thổ Hoàng thuộc huyện Hương Sơn. Thời Tây Sơn gọi là Phủ Ngọc Ma. Đến năm Minh Mạng thứ 9 (1828), trong sự điều chỉnh lớn về hành chính, phủ Ngọc Ma đổi thành phủ Trấn Định, sau đó đổi thành châu Quy Hợp và trấn Quy Hợp, thuộc huyện Hương Sơn. Đến năm 1867, “dưới thời Tự Đức thứ 21, một số tổng của huyện Hương Sơn đã được cắt ra để thành lập huyện Hương Khê gồm: Quy Hợp, Chu Lễ, Hương Khê, Phương Điền và Phúc Lộc”([1]). Tên huyện Hương Khê có từ đó. Sau khi thành lập huyện, Chu Lễ là huyện lỵ. Tại đây có dinh thự quan huyện, các nhà trại, nhà giam, nhà học. Sách Đồng Khánh Dư Địa Chí cho biết: “Hương Khê là huyện thống hạt thuộc phủ Đức Thọ. Huyện lỵ đặt ở địa phận xã Chu Lễ. Thành huyện trồng tre làm rào, mỗi chiều dài 22 trượng, chu vi 88 trượng. Có một cửa ở mặt tiền”([2]).
Đến cuối thế kỷ XIX, Hương Khê có tổ chức hành chính gồm 5 tổng là: Phúc Lộc, Chu Lễ, Quy Hợp, Phương Điền, Hương Khê. Trong đó, tổng Chu Lễ([3]) gồm có 9 xã, thôn: Xã Chu Lễ, thôn Trung Định, thôn Phúc Ấm, xã Loan Dã, xã Xuân Lũng, xã Nam Trạch, xã Tri Bản, xã Đông Ấp, xã Hà Linh. Một phần xã Chu Lễ và thôn Trung Định thuộc xã Hương Thủy ngày nay.
Đầu thế kỷ XX, dưới thời kỳ Pháp thuộc, tổ chức hành chính của Hương Khê vẫn giữ nguyên cấu trúc 5 tổng, mỗi tổng có nhiều làng và có một huyện lỵ. Tổng Chu Lễ lúc này gồm có 13 xã: Gia Phố, Loan Dã, Nam Trạch, Ninh Cường, Phúc Ấm, Phú Gia, Phú Phong, Thượng Bình, Thượng Thạch, Tri Bản, Trung Định, Trung Hà, Xuân Lung. Xã Thượng Thạch (gồm hai vùng Thượng Giáp và Hạ Giáp), xã Trung Định và huyện lỵ Chu Lễ nằm trên lãnh thổ của xã Hương Thủy ngày nay. Lúc này, huyện lỵ Chu Lễ phát triển thành thị trấn gồm thêm nhà bưu điện, nhà ga, trường tiểu học Pháp Việt Hương Khê, kho quân lương, sân vận động, chợ Huyện (họp một tháng 30 phiên).
“Thời kỳ 1930 - 1945, Hương Khê có 3 tổng là Xuân Khánh (vùng thượng huyện), Hà Nam(vùng trung tâm huyện), Trại La (hạ huyện), gồm 42 xã. Mỗi tổng có một chánh tổng, một phó tổng. Một xã có một Lý trưởng, Phó Lý và Ngũ hương. Đó là bộ máy chính quyền phong kiến ở hương thôn, đều do bọn địa chủ hoặc những tay chân của đế quốc phong kiến có quyền thế nắm giữ”([4]).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền đã bỏ cấp tổng, nhập các làng xã nhỏ thành các xã lớn. Toàn huyện Hương Khê từ hơn 42 làng, lập thành 15 xã lớn và một thị trấn (huyện lỵ Chu Lễ). Thực hiện chủ trương đó, làng Thượng Thạch thuộc tổng Chu Lễ cũ được đặt tên là xã Thượng Thạch. Làng Trung Định sáp nhập thêm hai làng Lung Sơn, Lung Chân ở hữu ngạn sông Ngàn Sâu thuộc tổng Phúc Lộc cũ và làng Yên Thắng – Tế Lễ thuộc xã Văn Đồng, tổng Phương Điền cũ thành xã Trung Định([5]). Sau khi chính quyền thuộc về tay nhân dân, Chu Lễ vẫn là lỵ sở của huyện Hương Khê. Uỷ ban Tổng khởi nghĩa sau đổi thành Uỷ ban hành chính huyện đóng ngay tại huyện đường cũ.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945-1954), Hương Khê sắp xếp lại phạm vi hành chính các làng xã theo hướng tinh giản cấp huyện, tăng cường cấp xã. Tháng 5/1947, sáp nhập xã Thượng Thạch với xã Trung Định và xã Hà Đông lấy tên xã Hương Thủy. Tên xã Hương Thủy có từ đó.
Đến tháng 7/1954, tiến hành tách xã Hương Thủy thành 3 xã:
- Xã Hương Thủy gồm làng Thượng Thạch và 1/5 làng Trung Định.
- Xã Hương Tân gồm phần còn lại của làng Trung Định và xã Trung Lễ cũ.
- Xã Hương Giang nằm ở phía bắc hữu ngạn sông Ngàn Sâu.
Thời kỳ 1972 - 1976, nhiều xã nhỏ ở Hương Khê được sáp nhập thành xã lớn để đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Trên tinh thần đó, tháng 3/1972, sáp nhập xã Hương Thủy với xã Hương Tân thành xã Hương Thủy cho đến ngày nay. Từ năm 1954 – 1965, Chu Lễ vẫn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của Hương Khê. Sau ngày Mỹ ném bom xuống Bệnh viện Hương Khê (10/1965), các cơ quan đầu não của huyện sơ tán về Hương Long, Hương Vĩnh và sau đó xuống Hương Bình. Tháng 3/1973, vì địa hình Chu Lễ hạn hẹp không đáp ứng được nhu cầu phát triển thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa huyện, lỵ sở huyện được chuyển từ Chu Lễ về địa điểm mới ở xã Hương Phong, Chu Lễ chỉ còn là “xóm Chu Lễ” – Thị trấn cũ của huyện.
Như vậy, xã Hương Thủy ngày nay gồm các làng cũ Thượng Thạch, Trung Định (thuộc tổng Chu Lễ cũ), Yên Thắng, Tế Lễ (thuộc tổng Phương Điền cũ) và Lung Sơn, Lung Chân (thuộc tổng Phúc Lộc cũ).
II. CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI
Về dân cư và làng xóm, so với các địa phương khác trong toàn huyện, ở Hương Thủy quy luật tụ thủy - tụ thổ - tụ nhân - tụ văn diễn ra trong lịch sử là rất điển hình. Nơi đây, thủy sơn hội tụ([6]), dòng sông Thâm Giang (Ngàn Sâu) chảy cuộn dưới chân những mạch núi thấp qua hàng ngàn triệu năm([7]) đã bồi đắp thành một thung lũng nhỏ, đất đai màu mỡ phì nhiêu, lắm tài nguyên. Miền địa lợi, vẻ non sông tươi tốt, phong thủy hữu tình này thuận lợi cho các cuộc di dân lên làm ăn sinh sống([8]). Mặt khác, địa hình Hương Thủy rất hiểm trở, núi rậm, rừng sâu hoang vu, nhân dân rất dễ ẩn náu và tránh sự truy lùng của triều đại phong kiến đối lập, các thế bóc lột, đó cũng là một trong những nguyên do dân cư tới đây ngày càng đông. Theo nhận định của các nhà sử học, gốc gác nhân dân Hương Khê thường là nông dân các địa phương khác vì tránh bị áp bức, bóc lột, đói khổ chạy nạn lên kiếm kế sinh nhai, khai cơ lập nghiệp; một bộ phận vương thân, quan lại dưới thời phong kiến chạy loạn, lãnh nạn, tránh sự truy sát của thế lực phong kiến đối kháng, giặc xâm lâm lăng.
Các cuộc di cư đi theo đường sông Ngàn Sâu và những con đường bộ nhỏ băng qua những rặng núi, chạy giấu mình dưới rừng cây. Trong “An – Tĩnh cổ lục”, một tiểu luận Dư địa chí về vùng Nghệ Tĩnh cổ xưa, xuất bản năm 1936, được giới nghiên cứu đánh giá cao của tác giả Hippolyte Breton, gọi đây là “con đường thượng đạo” giúp nối liền vùng thung lũng Ngàn Sâu với tỉnh lỵ, các vùng đông dân cư hay tới thung lũng sông Gianh. “Tất cả những con đường nhỏ từ các đồng bằng ven biển Hà Tĩnh đều chạy về con đường từ Linh Cảm đến Ba Đồn. Từ phía Đông vào Hương Khê chỉ có một chỗ đi qua dễ dàng, đó là đèo Thượng Bạc, đường hàng tỉnh số 53 đi qua chỗ này nối liền tỉnh lỵ với huyện lỵ huyện Hương Khê, đồn Chu Lễ...”([9]).
Dưới triều Lý, vua, thái tử, tướng lĩnh (tiêu biểu là Uy Minh vương Lý Nhật Quang) đã dùng “con đường thượng đạo” cho các cuộc chinh chiến, xây dựng đồn lũy bảo vệ bờ cõi. Chính vào thời kỳ này nhà Lý đã cho đắp các thành lũy tại các vùng Tuyên Hóa để kiếm soát 12 động đá vôi, chống lại sự xâm lược của người Chiêm Thành.
Đầu triều Trần, thung lũng Ngàn Sâu có rất ít dân cư sinh sống. “Thời đó vùng cuối Hoan Châu, nơi tiếp giáp Chiêm Thành dân cư còn thưa thớt lắm. Cả vùng lung lũng Ngàn Sâu, Ngàn Phố chỉ có vài nơi có ít nhiều cư dân đãi vàng, tìm trầm…cư ngụ”([10]).
Vào cuối triều Trần, Hồ Quý Ly ngày càng thâu tóm quyền lực vào tay mình, vì thế nên một số vương thân, quan lại của vương triều Trần đã phải rời kinh thành để đi lánh nạn, trong đó có bà Trần Thị Ngọc Hào. Năm 1378, bà Trần Thị Ngọc Hào người Hoan Châu (làng Tri Bản, Nghệ Tĩnh)([11]) là vợ của vua Trần Duệ Tông, sau khi vua bị tử trận ở Chiêm Thành và sự thâu tóm quyền hành của Hồ Quý Ly, bà cùng với 566 người đã rời bỏ kinh thành về quê của mình để lãnh nạn, mộ dân khai phá vùng rừng núi thung lũng Ngàn Sâu. Dưới quyền cai quản của Tuyên Lực Công Thần Trần Nghị và sau đó là Hưng Quốc Công Trung Quân Lĩnh Ngô Kinh, khai phá rừng lập làng định cư, trấn giữ vùng biên thùy phía Tây Nam và mở mang bờ cõi, chống lại sự xâm nhập, quấy nhiễu của quân Chiêm Thành. Vùng đất mới khai phá trực thuộc quân lực Hoàng gia, nên gọi là “Hoàng Điền Cương Thổ” (Đất nhà vua). Khu đất khai phá gồm có 5 vùng chính là:
- Vùng Lai Khê (La Khê): Khe Nét – Kim Lũ rộng 618 mẫu.
- Hằng Nga: Miền Phú Phong, Xuân Lụng (Hương Xuân) rộng 870 mẫu.
- Tùng Chính: Từ Địa Lợi lên Hà Đông (Hương Thủy, Hương Giang) rộng 839 mẫu.
- Hoàng Điền: Từ Miễu Mỏ (Phương Mỹ) lên Trúc Lâm, Phúc Đồng, Phúc Hội rộng 715 mẫu.
- Ngũ Khê (Mỹ Khê): Từ Khe Rẻ đến Mỹ Khê (Phương Mỹ), Hà Linh rộng 923 mẫu.
Tổng cộng có 3.965 mẫu.
Sau khi nhà Hồ bị quân Minh đánh bại, tôn thất nhà Hồ và nhân dân chạy giặc lúc đó cũng chạy trốn về vùng này. “Người Việt chỉ bắt đầu đến khai khẩn thung lũng Ngàn Sâu từ cuối đời Trần. Những quan lại, hậu duệ tôn thất nhà Trần…và những người dân phiêu tán, chạy giặc lúc đó chắc chắn là những thế hệ đầu tiên định cư tại đây”([12]).
Thời hậu Trần, vua giản Định (Trần Ngỗi 1407-1409) và vua Trùng Quang Đế (Trần Qúy Khoáng 1407-1409) lập căn cứ tại vùng Ngàn Sâu để đánh giặc Minh. Cuộc chiến của quân Trần chống quân Minh thất bại, một số quân lính trốn thoát đã định cư ở vùng Ngàn Sâu.
Dưới thời Lê Trung Hưng, thế kỷ XVII, danh tướng Ngô Đăng Minh, sau khi cầm quân đi đánh giặc Bồn Man ở vùng phía tây Nghệ Tĩnh thắng lợi trở về đã chiêu mộ nhiều người dân về khai khẩn, lập làng ở các xã Hà Linh, Phúc Đồng, Hương Long, Hương Bình, Hương Phú và một phần của xã Hương Thủy (vùng Tế Lễ-Yên Thắng). Cả một vùng rừng núi hoang vu nơi biên cương đã mau chóng trở thành những xóm làng trù mật.
Dưới thời các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, tức đầu thế kỷ XIX, có nhiều người trong số lính thú([13]) đi làm nhiệm vụ tại đây đã ở lại xây dựng cơ nghiệp, sống gắn bó với vùng đất Ngàn Sâu và trở thành cư dân bản địa.
Như vậy, từ sau năm 1378 trở đi, với những biến cố lịch sử đó đã tác động sâu sắc tới quá trình di dân, chinh phục thiên nhiên, khai hoang mở đất, lập làng, định cư lâu dài trên thung lũng Ngàn Sâu nói chung và vùng đất Hương Thủy nói riêng.
Từ khi huyện Hương Khê thành lập (1867), Chu Lễ trở thành huyện lỵ, có dinh thự quan huyện, các nhà trại, nhà giam, nhà học, số dân đến định cư tăng lên.
Đặc biệt, sang đầu thế kỷ XX, để phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa, tư bản Pháp mở đường sắt Bắc - Nam, xây dựng nhà ga, nhà bưu điện, trường tiểu học Pháp - Việt Hương Khê, kho quân lương, sân vận động, chợ Huyện họp mỗi tháng 30 phiên thêm tấp nập... Chu Lễ được xây dựng thành thị trấn nhộn nhịp “trên bến, dưới thuyền” bên bờ sông Ngàn Sâu, nhờ vậy mở rộng giao thương trên nhiều lĩnh vực giữa Hương Thủy với các vùng trong tỉnh và trong cả nước, nhiều người làm trong ngành Hỏa xa, buôn bán, dạy học và các ngành nghề khác đến Hương Thủy làm ăn, sinh sống, rồi “đất lành, chim đậu” định cư lâu dài.
Năm 1946, hướng ứng “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” chống thực dân Pháp xâm lược lần hai của Bác Hồ, Hương Thủy đón nhận một số đồng bào Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Quảng Trị, Quảng Bình theo cơ quan tài chính Trung bộ về sinh sống.
Một bộ phận dân cư khác mới được bổ sung từ những năm nửa sau thế kỷ XX, đó là những bộ công chức, công nhân các cơ quan nhà nước, công, nông, giáo viên,...và thân nhân của họ đến công tác rồi định cư tại đây.
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, trong biến thiên của lịch sử, trải qua bao “dâu bể, tang điền”, từng bộ phận cư dân đến định cư ở đất này vào nhiều thời điểm, với nhiều lý do khác nhau. Các họ tộc dân bản xứ không nhiều, phần lớn là dân tứ chiếng, dân góp từ các nơi, các nguồn, từ trong và ngoài Hà Tĩnh đến lập nghiệp, nhiều nhất là dân Đức Thọ, Hương Sơn, Thạch Hà, Can Lộc và một số ở Nghệ An. Chính vì thế văn hóa Hương Thủy khá đa dạng, thể hiện rõ qua ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tín ngưỡng,... Nhờ đó, con người Hương Thủy có những phẩm chất quý giá: thông minh, cần cù, trọng nghĩa, tính cách mạnh mẽ, thích ứng nhanh với cuộc sống. Những phẩm chất đó giúp cho người Hương Thủy thành công trên nhiều lĩnh vực.
Trước năm 1930, ở Hương Thủy đã có 3 làng, gồm: Thượng Thạch, Trung Định và Tế Lễ. Các làng này đều có Liệt Triện và có hệ thống chính quyền riêng như: Lý trưởng, Phó lý và Ngũ hương([14]).
Như vậy, cho đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các làng ở Hương Thủy đã được định hình tương đối hoàn chỉnh.
Cho tới những năm 1929-1930, Hương Khê có gần 3 vạn dân. Ở vùng Hương Thủy có 3 làng, nhưng các tài liệu hiện có chỉ cho biết dân số hai làng Thượng Thạch và Tế Lễ. Còn làng Trung Định không thấy tài liệu nào ghi chép. Trong tài liệu chi bộ Thượng Thạch thời kỳ 1930-1931 cho biết: “Dân số trong làng có 2140 nhân khẩu”. Tài liệu Chi bộ Tế Lễ thời kỳ 1930 - 1931 cho biết dân số của Tế Lễ: “Tráng đinh 79 người, bần đinh 32 người, nhân khẩu 820 người”.
Thượng Thạch là vùng nằm ở trung tâm huyện lỵ, vì thế dân cư tập trung đông đúc. Còn Tế Lễ nằm ở vùng đặc biệt khó khăn, đất đai chủ yếu là đồi trọc cằn cỗi, thấp lụt, dân cư tập trung sinh sống ít hơn.
Riêng Trung Định nằm ở giữa Thượng Thạch và Tế Lễ, cách trung tâm huyện lỵ khoảng chừng 1 km, nằm bên bờ tả ngạn sông Ngàn Sâu, có đất đai rộng hàng trăm mẫu phì nhiêu, tươi tốt. Dân gian còn truyền nhau rằng:
“Có con gả về làng Trung
Có tiền tậu ruộng Phúc Đung mà cày”
Phúc Đung là một cánh đồng màu mỡ thuộc làng Trung Định, quanh năm đủ nước để trồng lúa nhờ có khe Trạng chảy ra. Gả con về làng Trung Định là muốn sống ở vùng giàu có. Vì vậy, số lượng dân cư tập trung sinh sống ở đây khá đông đúc hơn xã Tế Lễ và dĩ nhiên không thể nhiều hơn so với xã Thượng Thạch.
Dựa trên những cơ sở đó có thể ước lượng dân số của 3 làng Thượng Thạch, Trung Định và Tế Lễ vào đầu thế kỷ XX khoảng trên dưới 3000 nhân khẩu.
Đến nay, ở Hương Thủy có 25 dòng họ([15]) sinh sống trên địa bàn, có 16 nhà thờ họ, gồm 77 khu dân cư, chia thành 9 xóm với số dân 5.054 khẩu với 1.279 hộ([16]).
Về dân tộc, ở Hương Thủy chỉ có dân tộc Kinh sinh sống.
Về tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo đến với người dân Hương Thủy từ khi nào chưa có cứ liệu khẳng định, nhưng theo những chứng tích còn lại thì nó đã có từ rất lâu. Trong xã từng có sự thịnh hành của Nho giáo, Phật giáo.
Trên địa bàn xã đã từng có sự tọa lạc 3 ngôi chùa Phật giáo: Chùa Thượng Thạch, Chùa Trung Định, Chùa Hói Lung. Trong đó, chùa Thượng Thạch là địa điểm sinh hoạt và thành lập tổ chức thanh niên yêu nước Tân Việt do thầy Lê Viết Lượng tập hợp (năm 1928). Tiếc rằng, qua thời gian, bom, đạn ác liệt của chiến tranh và phong trào hợp tự trong những năm 1948 - 1949, những ngôi chùa linh thiêng, cổ kính đó hầu như bị phá huỷ, nay chỉ còn lại một số dấu tích, là các chứng tích cho thấy ở đây Phật giáo đã từng rất thịnh hành.
Tín ngưỡng dân gian cũng phát triển, trên địa bàn của xã có 10 ngôi đền, thờ các vị thần thánh của riêng mình. Theo Đồng Khánh Dư Địa Chí khi viết về hệ thống đền miếu tiêu biểu ở huyện Hương Khê có nói tới tên 3 ngôi đền thuộc địa bàn xã Hương Thủy ngày nay, đó là: “Đền thờ Cao Sơn Cao Các thượng đẳng thần ở thôn Trung Định, dân bản thôn phụng thờ… Đền thờ Trà Sơn Hộ quốc thượng đẳng thần ở xã Chu Lễ, do dân bản xã phụng thờ… Đền thờ Thủy Tinh Công Chúa ở xã Chu Lễ, do dân bản phụng thờ…”([17]). Ngoài ra, còn có các đền Tế Lễ, đền Động Mộc, đền Trạng([18]), đền Cây Vải, miếu Nhà Bà, đền Khe Nác, đền Rú, đền Long Mạch – Sơn Thần([19])…
Hiện nay, người dân đã phục hồi được đền thờ Thánh Mẫu ở Thủy Lâm, đền thờ Đức Thánh Khai Sơn ở núi Khoai Vạc, đền Động Mộc, và một phần đền Long Mạch - Sơn Thần.
Ngày nay, các đền, chùa, miếu và các nghi lễ cúng tế thần, phật không còn nhiều, nhưng các giá trị giáo dục về đối nhân xử thế, hướng con người tới cái thiện vẫn luôn được duy trì, gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ. Tư tưởng nhân, nghĩa, trí, đức; sẵn sàng hy sinh và tha thứ trong tôn giáo cũng là cái đích mà các thế hệ người dân Hương Thủy luôn hướng tới.
Từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Thiên Chúa giáo du nhập, Hương Thủy xuất hiện một số làng Công giáo ở Yên Thắng, Lung Sơn, Lung Chân, Thượng Thạch. Hiện nay, trên địa bàn xã có ba nhà thờ họ: Vạn Nguyên, Thuận Hội và Thượng Thạch.
Sự tồn tại của các tôn giáo và tín ngưỡng dân gian ở Hương Thủy không tạo nên sự cuồng tín, không trở thành ý thức tôn giáo phổ biến. Những hành động quá khích, mất đoàn kết giữa các tín ngưỡng tôn giáo không xuất hiện. Mọi người sống thân thiện, che chở, đùm bọc lẫn nhau, cùng nhau đối phó với thú dữ, thiên tai và giặc dã.
Hương Thủy nằm trong thung lũng Ngàn Sâu. Mặc dù đất rộng, người thưa, ruộng đồng trù phú, lắm tài nguyên, nhưng dưới chế độ thực dân phong kiến cuộc sống của người dân Hương Thủy vô cùng bị thảm. Bọn thống trị đã duy trì nền nông nghiệp sản xuất lạc hậu, độc canh, các mặt thủy lợi, phân bón không được chú ý, nên năng suất cây trồng thấp. Hàng năm, ở Hương Thủy thường xảy ra hạn hán, lũ lụt, thường xuyên mất mùa. Đã thế, bọn quan lại các cấp lại ra sức hà hiếp, bóc lột, càng khiến cho cuộc sống của người dân trên mảnh đất này thêm lầm than, bần hàn.
Về kinh tế, Hương Thủy là xã thuần nông và khai thác lâm thổ sản là chính, kỹ thuật canh tác lạc hậu, hay bị thiên tai, đời sống nhân dân vẫn đói kém, song quan hệ sản xuất đã có những nét mới. Giai cấp địa chủ ngày càng lớn mạnh, bọn hào lý và địa chủ Nhà chung cũng phát triển thế lực. 70% ruộng đất trong xã thuộc về địa chủ.
Do ruộng đất bị bọn địa chủ và thực dân Pháp chiếm đoạt nên nông dân Hương Thủy phần đông không có ruộng, hoặc thiếu ruộng, bình quân mỗi nông dân chỉ có 1 sào 2 thước. “Việc lĩnh canh làm rẽ của dân cũng không dễ. Họ phải chạy thầy nạp lễ, cầu cạnh, nhẫn nhục mới xin được lĩnh canh ruộng đất của địa chủ để cày và khi thu hoạch cũng chỉ được 30% hoa lợi, 70% phải nộp cho địa chủ. Những nông dân không nhận được ruộng thì phải trực tiếp đi làm thuê như cày thuê, cuốc mướn, hoặc đi ở cho địa chủ, phú nông, làm việc quần quật suốt ngày mà vẫn bị chửi mắng, xua đuổi, ăn đói, mặc rách”([20]). Những năm mất mùa đói kém, những lúc con ốm, vợ đau, người dân Hương Thủy lại phải đến nhà địa chủ lạy lục xin vay lúa, vay tiền, nợ cũ chưa trả hết lại dồn sang nợ mới. Cuộc sống đói khổ của người dân Hương Thủy cứ kéo dài từ ngày này, sang ngày khác.
Bọn địa chủ bóc lột nhân dân bằng tô tức, bọn thực dân lại tăng cường bóc lột bằng sưu thuế. Nguồn sống của người dân Hương Thủy chủ yếu là nghề nông. Tuy nhiên, ruộng đất tốt phần lớn đều tập trung vào nhà phú hộ, còn lại là những mảnh đất khô cằn của người dân. Người dân Hương Thủy quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời nhưng vẫn đói khổ vì sưu cao thuế nặng. Ngoài lao dịch, địa tô, thuế ruộng, thuế rượu, thuế muối, thuế chợ…, tất cả nam giới từ 18 đến 59 tuổi đều phải đóng thuế đinh (thuế thân), thậm chí có người chết rồi mà người sống vẫn còn phải đóng thuế thay. ‘‘Mỗi suất thuế thân năm 1914 là 2 đồng 9 hào, đến năm 1917 là 26 đồng, tăng gấp 9 lần’’([21]). Các cuộc xổ sổ, lạc quyên, bán công trái quốc gia cũng là một hình thức vơ vét thêm tài sản của nhân dân phục vụ cho quyền lợi bọn cầm quyền.
Thuế ruộng thường có 3 loại: nhất, nhì, tam. Trong đó, ruộng hạng nhất hầu hết của địa chủ phong kiến, ruộng hạng ba phần lớn của nông dân, nhưng các hạng đều đóng một mức thuế ngang nhau. Bọn địa chủ đã cấu kết với bọn cường hào đề ra chủ trương “nhất, tam tòng, nhị”, tức là ruộng hạng nhất, hạng ba đều đóng thuế như hạng nhì để trút gánh nặng lên vai những người dân cày. Đã vậy đến mùa thu thuế, bọn quan lại và cường hào còn định ra nhiều khoản phụ thu vô lý khác đánh vào đầu nhân dân.
Tài liệu Chi bộ Tế Lễ viết cho biết, toàn làng có 260 mẫu ruộng, nhưng cuộc sống người nông dân hết sức cơ cực, bần hàn dưới ách thống trị của chế độ thực dân phong kiến. ‘‘Nông dân cày thuê cuốc mướn lĩnh canh, nộp tô cho địa chủ 35%; sống với hoa màu là chủ yếu như khoai, ngô, sắn, nưa... Trong vườn hàng năm không có gì hoa lợi. Ruộng công đã bị địa chủ chiếm mất 37 mẫu’’([22]). Như thế, ‘‘mà nợ lãi của phe Hội phân thu 30% để dùng vào việc cúng tế các đền miễu, văn võ hội cùng nhau chè chén, biếu đãi chức sắc hào mục. Còn nhân dân nai lưng chịu lãi không hưởng quyền lợi gì cả’’([23]).
Không chỉ bao đất mà bọn tư sản, địa chủ còn chiếm cả cánh rừng, khúc sông lân cận làm của riêng, bắt dân nộp lễ vật mỗi khi đi lấy củi, đốt than, thả trâu bò. Nhân dân làng Tế Lễ muốn cho trâu bò vào rừng ăn cỏ phải nạp cho địa chủ Bang Trọng mỗi năm 6 quan tiền và một lít rượu.
Ở làng Thượng Thạch có 150 mẫu ruộng nhưng nông dân bị đánh thuế quá nặng buộc phải đi làm thuê, làm mướn kiếm sống.
Sưu thuế chồng chất cùng nạn phụ thu lạm bổ làm cho nông dân ngày càng điêu đứng.
Nạn cho vay nặng lãi: Ở giai đoạn này, sưu thuế đã trở thành quốc nạn, không có ăn người dân có thể nhịn đói, chịu khát nhưng không có tiền nạp sưu thuế thì họ buộc phải đi vay với lãi suất cắt cổ. Nếu vay tư nhân, phải chịu lãi từ 30 đến 50%/kỳ, đến kỳ mà chưa trả thì phải làm giấy khất đợt sau trả cả gốc lẫn lãi cũ và lãi mới. Còn một loại nợ lãi khốn khổ hơn nữa là nợ của họ, làng, phường hay xóm… gọi là nợ cộng khởi. Lãi suất nhẹ hơn của tư nhân (từ 20 - 30%) nhưng đến kỳ mà người vay chưa trả thì số nợ cả vốn lẫn lãi sẽ cộng lên thành số nợ mới rồi tính theo lãi suất khác ở kỳ sau. Nếu vay lúa thì cũng được tính lãi suất giống như vậy. Do vậy, nhiều người đã lâm vào cảnh bần cùng không lối thoát.
Nạn phu phen, tạp dịch: Tất cả mọi việc như xây thành, đắp lũy, đào sông, làm cầu cống, kho tàng, bến bãi, dinh thự, đồn điền…dù bất cứ ai nếu không có tiền bỏ ra mua một chức danh trong làng, xã thì đều phải đi làm. Đợt ngắn thì hai, ba tuần, đợt dài thì vài ba tháng, khi nào làm xong phần công việc theo sự phân bố của làng mới được trở về. Đi phu, người dân phải chịu vất vả khó nhọc còn bị quân lính chửi bới, đánh đập tàn bạo. Người có ý định phản kháng thì bị chúng đánh đến chết mà không ai dám bênh vực. Tiền công cho những người đi phu dài ngày rất rẻ mạt, lại còn bớt xén mất phân nửa, có khi đến hai phần ba, làm nhiều người thậm chí không còn đủ tiền mà về nhà.
Nạn cầm cố: Người nông dân đã nghèo khổ lại còn nợ nần chồng chất nên trong nhà, vật gì có giá trị hầu như đều phải đem ra cầm cố. Tuy nhiên, bọn nhà giàu, trọc phú luôn có những thủ đoạn chiếm đoạt của dân bằng hình thức cầm với giá rẻ trong một thời gian ngắn. Do đó, khi người dân mang đồ đi cầm là coi như đem bán với giá rẻ mạt.
Đến đầu thế kỷ XX, công thương nghiệp ở Hương Thủy vẫn trì trệ, không phát triển được. Toàn xã và cả huyện chỉ có một số ít người ở vùng thị trấn Chu Lễ làm nghề buôn bán tạp hóa, làm nghề thủ công như dệt vải, ép dầu, ép mía, làm mật, song không có tiềm lực, vốn liếng lớn. Hàng xuất đi chủ yếu là gỗ, nứa, mây, lá tro, củ nâu, một số trâu bò,… số lượng cồng kềnh, giá trị thấp. Hàng nhập là thứ cần dùng trong đời sống hàng ngày, theo đường sông Ngàn Sâu và đường bộ, đường ô tô xuống trung tâm tỉnh lị Hà Tĩnh qua vùng Truông Bát hoang vắng. Đời sống của tiểu thương, thợ thủ công bấp bênh do bị chèn ép, bị bóc lột nặng nề bằng thuế má.
Về văn hóa xã hội, gần một thế kỷ thống trị, thực dân, tư bản Pháp đã áp dụng nhiều biện pháp thâm độc nô dịch nhân ta.
Người dân không được biết đến việc nước, việc làng; trẻ em không được đến trường và đa số đều mù chữ. Toàn huyện chỉ có một trường tiểu học ở Chu Lễ và 8 trường tiểu học ở các xã. Tổng số học sinh cả huyện năm 1930 khoảng 400 người, chủ yếu chỉ con em nhà quyền quý, giàu sang mới có đủ điều kiện đến trường, còn đại bộ phận thanh, thiếu niên, nhân dân lao động đành chịu thất học, bị mù chữ. Các môn học ở trường chủ yếu bằng tiếng Pháp và dạy văn hóa Pháp là chính. Những người có ý thức dân tộc sẽ lập tức bị đuổi ra khỏi trường học. Ngoài ra, để ru ngủ tầng lớp thanh niên có chút học thức, thực dân Pháp cho tuyên truyền các loại sách báo phong tình, mê tín dị đoan, tiểu thuyết kiếm hiệp… và cấm không ai được cất giữ các loại thơ văn yêu nước, ca ngợi quê hương hay cổ động ý chí tự cường vọng tộc. Do vậy, các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, cờ bạc, rượu chè, đồng bóng, bói toán, tệ cưới hỏi, ma chay, đình đám tốn kém, lạc hậu phát triển tràn lan. Chúng cấm người dân nấu rượu nhưng lại bắt bà con mua rượu cồn Phôngten. Chúng duy trì 1 đại lý bán rượu cồn ở Chu Lễ (cùng với 2 đại lý Trúc và Lộc Yên), giao rượu về bắt quan chức phải buộc dân tiêu thụ.
Đầu thế kỷ XX, cả huyện chỉ có một trạm xá ở Chu Lễ, với 1 y tá, 1 hộ sinh. Người dân đau ốm, bệnh tật không có nơi cứu chữa nên nạn mê tín, dị đoạn, cầu cúng phổ biến, ‘‘tiền mất, tật mang’’. Do vậy, cảnh ốm đau, chết chóc, tang thương diễn ra ở nhiều nơi.
Về chính trị, hạn chế về sự phát triển văn hóa, xã hội, song bộ máy cai trị lại được thực dân Pháp và phong kiến Nam triều ra sức tăng cường. Hương Thủy với vai trò là trung tâm của chính quyền cai trị, bị bọn thực dân, phong kiến kìm kẹp hà khắc nhất huyện. Nơi đây có huyện đường, có đồn quân đội Pháp (năm 1928 chúng củng cố đồn binh ở Chu Lễ với trên 50 lính khổ đỏ, do một sỹ quan Pháp làm đồn trưởng), có nhà lao, có mật thám, có bang tá, có sở đoan (thuế vụ), có đồn kiểm lâm. Ngoài ra còn có Chánh tổng, Phó tổng, hệ thống Lý trưởng, Phó lý phụ trách các xã và Ngũ hương phụ trách các thôn được đào tạo bài bản để phục vụ cho chế độ thực dân phong kiến.
Dựa vào thế lực thực dân, phong kiến, bọn quan lại, cường hào địa phương đã ra sức hà hiếp, nhũng nhiễu nhân dân. Chúng đặt ra nhiều thứ bậc, luật lệ để ràng buộc người dân. Việc mua bán ngôi thứ, tranh nhau chiếm đoạt ruộng đất công, tham nhũng công quỹ diễn ra thường xuyên khắp các thôn xã. Ngoài việc tăng cường bộ máy đàn áp, bóc lột, bọn thống trị còn dùng mọi âm mưu chia rẽ lương giáo, phân biệt đối xử giữa dân ngụ cư và dân chính quán, xúi giục kiện cáo để chia rẽ nhân dân, làm suy yếu sức đấu tranh để chúng tiện bề vơ vét.
Với chế độ cai trị hà khắc như vậy, nhân dân không có một chút tự do dân chủ nào. Mọi hoạt động đều thực hiện dưới sự điều hành và giám sát của tầng lớp quan lại dày đặc. Ai có ý định phản kháng hay đi ngược lại với quyền lợi của chúng thì lập tức bị bắt bớ, giam cầm, tra tấn dã man. Do đó, trong lòng mỗi người dân Hương Thủy đều chất chứa ngọn lửa căm hờn, chờ cơ hội là bùng lên thiêu đốt kẻ thù.
Chuyển biến lớn nhất, sâu sắc nhất của vùng Hương Khê nói chung và Hương Thủy nói riêng là cuối những năm 1920 đầu những năm 1930 của thế kỷ XX, khi thực dân Pháp tiến hành xây dựng tuyến đường sắt Bắc - Nam qua địa phận của huyện.
Trên tuyến đường sắt xuyên Việt, đoạn Vinh - Đông Hà được thực hiện với tiến độ chậm. Đoạn này dài 299 km, năm 1922 khởi công xây dựng từ hai đầu. Khu vực phía Bắc, đoạn từ Vinh, tháng 1/1927, sau khi đặt được 89 km đến Tân Ấp đã dừng lại, không tiến về nam mà rẽ nhánh đi về phía Xóm Cục để sang Lào. Từ phía nam, đến tháng 10/1927, đã đặt được 112 km từ Đồng Hới ra Tân Ấp.
Đoạn đường sắt đi qua địa phận xã Hương Thủy dài khoảng 7 km. Việc xây dựng đường sắt Bắc - Nam qua xã và huyện đã gây nhiều tai họa cho nhân dân Hương Thủy, như mất ruộng vườn, phải di chuyển nhà cửa, mồ mả, đi phu, lao dịch,… Tuy vậy, về khách quan, nó cũng đã làm cho kinh tế - xã hội Hương Thủy có những biến đổi nhất định theo hướng tích cực, làm thay đổi diện mạo của xã. Đó là việc hình thành và nâng cấp đường ô tô, hình thành nhà ga Chu Lễ, nhất là hình thành đội ngũ công nhân, công chức làm việc trên tuyến đường, nhà ga.
Có đường sắt xuyên Việt chạy qua nên mặc dù tình hình giao thương, giao lưu mọi mặt giữa Hương Thủy với cả nước kịp thời được mở rộng, nhộn nhịp với vai trò là đầu mối của toàn huyện nhưng bọn thực dân, tư bản ngày càng tăng cường thực thi các chính sách thống trị, khai thác thuộc địa ở Hương Thủy. Sự hoang vắng, lạc hậu bất cập với thời cuộc lùi dần; phong tục tập quán, lề lối làm ăn bắt đầu có sự thay đổi, sự phân hóa giai cấp, xã hội ngày càng sâu sắc, phong trào yêu nước, dân chủ có điều kiện thu hút những tư tưởng mới.
Về cơ bản, đầu thế kỷ XX, cùng với sự chuyển biến lớn về kinh tế, nhất là việc hình thành tuyến đường sắt Bắc - Nam qua dọc xã, Hương Thủy cũng có những chuyển biến mạnh mẽ về chính trị, xã hội. Ngoài giai cấp địa chủ phong kiến và nông dân, đã hình thành hai giai cấp mới là: tiểu tư sản và công nhân (ở Hương Thủy nói riêng và Hương Khê nói chung chưa hội tụ đầy đủ các điều kiện để hình thành giai cấp tư sản). Công nhân ở đây chỉ tập trung làm việc ở ngành đường sắt của Pháp, chiếm tỷ lệ ít. Sự xuất hiện của tầng lớp tiểu tư sản tri thức (các thầy giáo và học sinh Tân học) gắn liền với việc mở trường tiểu học Hương Khê trên địa bàn xã Thượng Thạch vào năm 1919. Các thầy giáo Nguyễn Văn Hậu, Trần Hậu Toàn, Lê Viết Lượng vừa dạy học vừa bí mật xây dựng phong trào yêu nước và tuyên truyền tư tưởng cách mạng thông qua các giờ giảng bài. Đây là một nhân tố hết sức quan trọng góp phần giác ngộ cách mạng cho quần chúng, chuẩn bị về nhân sự cho việc tiếp thu đường lối cách mạng vô sản, dẫn tới sự ra đời các chi bộ Đảng Cộng sản ở Hương Thủy trong năm 1930. Hệ quả này nằm ngoài mục đích mở trường của thực dân Pháp.
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, nhân dân Hương Thủy đã có những đóng góp tích cực. Theo sử sách ghi chép lại, nhân dân Nghệ Tĩnh, nhân dân Hương Khê nói chung và nhân dân Hương Thủy nói riêng, đã tham gia hưởng ứng cuộc khởi nghĩa chống ách cai trị tàn bạo của nhà Minh do Lê Lợi lãnh đạo. Núi Vũ Kỳ, sau gọi là núi Phù Lê, nay là Phù Lễ (Hương Trạch) là nơi xây dựng một kho lương thực lớn do nhân Hương Thủy cùng với nhân dân Hương Khê đóng góp nuôi nghĩa quân Lê Lợi.
Khi anh hùng Quang Trung tiến quân ra Bắc, nhân dân Hương Thủy đã hăng hái tham gia đoàn quân "áo vải cờ đào", góp phần cùng nhân dân Thanh - Nghệ bổ sung 5 vạn tinh binh, cùng quân Tây Sơn lập nên đại thắng tết Kỷ Dậu (1789), quét sạch 29 vạn quân Thanh, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Theo các cụ cao niên kể lại, khi Nguyễn Huệ hành quân đến đất Hương Thủy đã dừng chân, tiến hành tuyển quân.
Trong những người con yêu nước của Hương Thủy gia nhập quân Tây Sơn có Đại tướng quân Nguyễn Hữu Hộ. Xuất thân trong một gia đình nông dân, đã có vợ hiền xinh đẹp là Văn Thị Luân, tính cần cù lao động, tinh thần hào hiệp, cam đảm, mưu trí, Nguyễn Hữu Hộ hướng ứng nghĩa quân, theo Quang Trung tiêu diệt quân xâm lược và bè lũ tay sai bán nước. Lúc bấy giờ ông được thụ phong giữ chức Tướng sĩ lang thừa lệ điện trị sự hành binh cai đội. Là một tướng giỏi của Vua Quang Trung, ông được giao trọng trách dẫn cánh quân đặc nhiệm vào giải phóng Thăng Long. Chiều mồng 3 Tết Kỷ Dậu, quân ta bí mật kéo đến vây chặt đồn Hạ Hồi (tức Bắc Thành). Giặc bị bao vây, tổ chức phản công quyết liệt. Quân ta dũng cảm chiến đấu, buộc địch phải đầu hàng, nộp hết khí giới. Trong trận chiến oanh liệt đó, Nguyễn Hữu Hộ đã bị thương nặng và hy sinh vào ngày 3 Tết Kỷ Dậu (1789). Về sau, ông được vua Quang Trung truy tặng danh hiệu Bắc thành Đại tướng hùng uy nguyên phục chí thần, Nguyễn Hữu Hộ, tự Đức Bắc Thành. Nhân dân nhớ công đức của Ngài đã thờ cúng chu đáo ở đền Trạng cùng với các vị tiền bối có công với dân với nước. Đến ngày mồng 2 Tết muôn họ đến cúng lễ. Thân thế và sự nghiệp của Đại tướng Nguyễn Hữu Hộ còn được lưu giữ tại nhà thờ họ Nguyễn Văn tại Động Cửa (xóm 3, Hương Thủy)([24]).
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Hương Khê là nơi được vua Hàm Nghi chọn làm căn cứ của phong trào Cần Vương chống Pháp.
Tháng 10/1885, được tin vua Hàm Nghi ra tới Sơn Phòng Phú Gia, Phan Đình Phùng (người Đông Thái, Đức Thọ), đã lên yết kiến nhà Vua và được nhà Vua trực tiếp giao nhiệm vụ trở về đẩy mạnh phong trào chống Pháp trong địa phương mình. Suốt 12 năm liền (1885-1897), vùng Hương Khê là căn cứ quan trọng của cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng. Trong cuộc kháng chiến đó, nhân dân Hương Thủy đã cùng với cả nước đứng lên chống Pháp. Ngoài việc đóng góp nhiều lương thực thực phẩm để nuôi nghĩa quân, và đóng góp mâm thau, nồi đồng để nghĩa quân đúc vũ khí, nhiều con em của Hương Thủy đã tình nguyện lên đường gia nhập nghĩa quân, đi xây dựng thành lũy, doanh trại ở Vụ Quang hoặc tham gia lực lượng vũ trang của nghĩa quân([25]).
Ở Thượng Thạch, có các ông Phạm Quang Ý, may trang phục cho quân lính; Thái Diệu (tức Phê), Đốc Liệu, Dương Liệu, Đê Luần, Phan Tình là những lính của nghĩa quân([26]).
Ở Tế Lễ, có 3 tổ tham gia sản xuất lương thực nuôi binh([27]) và có 20 người tham gia nghĩa quân, gồm: Đặng Bá Ngân, Nguyễn Hộ, Đặng Khâm, Đặng Bá Kim, Phan Hữu Dũng, Lê Hới, Đặng Bá Tía, Nguyễn Nghi, Phan Hữu Trường, Lê Bá Dính, Tô Hót, Đặng Bá Hy, Đặng Bá Thu, Đặng Bá Ngoan (Đặng Bá Hoan), Phan Hữu Sáng, Đặng Bá Huy, Bạch Đình Thiện, Bạch Đình Cự, Bạch Đình Quế, Nguyễn Thị Hai. Có Đặng Bá Hy thủ lĩnh, được Phan Đình Phùng cử lánh về Tỉnh lỵ Hà Tĩnh làm hàng ăn để tổ chức cùng Đội Phấn, Đội Quyên hoạt động([28]).
Ở Trung Định, nhân dân một lòng hưởng ứng phong trào Cần Vương. Hiện nay, chưa có tài liệu nói rõ số lượng người tham gia, nhưng trong gia phả Đại tộc Nguyễn Văn cho thấy tinh thần yêu nước của nhân dân: ‘‘Khi bọn thực dân Pháp sang xâm chiếm nước ta, tổ tiên ta đã hưởng ứng phong trào Cần Vương, Phan Đình Phùng, phong trào cứu nước chống thuế, hoặc tham gia nghĩa quân hoặc ủng hộ nghĩa quân về mọi mặt. Do đó, vào cuối thế kỷ XIX, bọn Tây và bọn tay sai đã đốt nhà thờ họ ta, bắt một số cha ông ta giam ở Thịnh Lạc’’([29]).
Được sự hưởng ứng mạnh mẽ của nhân dân vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh nói chung và Hương Khê nói riêng, cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng nhanh chóng phát triển mạnh mẽ thành 15 quân thứ (cánh quân) và trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho phong trào Cần vương. Nghĩa quân của Phan Đình Phùng đã làm cho thực dân Pháp nhiều phen kinh hãi. Tháng 8/1892, khi địch mở trận càn lớn lên căn cứ Hói Trùng và Ngàn Sâu, quân dân Hương Khê dưới sự chỉ huy của Cao Thắng đã đánh nhiều trận oanh liệt như trận quyết tử ở Bãi Ma (Hương Thanh), trận đồn Tri Bản, Chợ Nổ hay Hói Trùng. Trong những trận thắng oanh liệt đó, có phần đóng góp của nhân dân Hương Thủy.
Thực dân Pháp biết nhân dân Hương Thủy có nhiều người tham gia nghĩa quân Phan Đình Phùng nên chúng càng khủng bố, giam cầm, bắt bớ, cấm dân làng đi ra khỏi làng xã và chúng bắt nhiều thanh niên đi phu đồn điền, hỏa xa, đi lính, bắt bớ những người về chỉ đạo phong trào.
Mặc dù chiến đấu ngoan cường, nhưng do lực lượng yếu, không được trang bị các thứ vũ khí hiện đại nên sau khi các lãnh đạo của phong trào như Phan Đình Phùng, tướng Cao Thắng hy sinh thì cuộc khởi nghĩa chỉ tiếp tục được duy trì thêm một thời gian nữa. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng - Cao Thắng lãnh đạo là đỉnh cao của phong trào Cần Vương đến cuối năm 1895 đã bị thất bại đồng thời kết thúc phong trào Cần Vương trong cả nước.
Từ năm 1896, khi đã cơ bản bình định được Việt Nam, thực dân Pháp đẩy mạnh cuộc khai thác thuộc địa (lần thứ nhất). Ở Hương Thủy, sau khi Pháp triển khai xây dựng tuyến đường sắt xuyên Việt chạy qua xã với tổng chiều dài khoảng 7 km và nhà ga Chu Lễ (ga chính), kinh tế - xã hội Hương Thủy có sự chuyển biến mới, dân cư Hương Thủy được bổ sung về số lượng và có sự thay đổi mạnh về cơ cấu. Nhiều người từ các nơi đến trung tâm huyện lỵ làm ăn, sinh sống và định cư lâu dài. “Số dân bản địa cũng bị phân hóa, đại đa số vẫn bám ruộng vườn, nông nghiệp thuần túy, một số thiếu ruộng cày cấy phải dựa vào nghề rừng để tồn tại. Tuy vậy, cũng có một số dựa vào tư bản, thực dân để làm ăn, phất lên thành điạ chủ, chủ đồn điền, một số làm công chức, giáo viên…”([30]) .
Dưới ách thống trị của bọn thực dân, phong kiến, nhân dân Hương Thủy phải chịu trăm bề khổ cực. Chính sự áp bức, bóc lột và cuộc sống khổ cực đó đã làm cho tinh thần chống đế quốc, phong kiến của nhân dân Hương Thủy càng thêm quyết liệt.
Vốn không cam chịu sự áp bức bóc lột của phong kiến, đế quốc nhân dân Hương Thủy, vốn từ nhiều nơi tụ họp về đây sinh cơ lập nghiệp, đã xây dựng cho mình một truyền thống đấu tranh bất khuất chống áp bức cường quyền và quả cảm trong khắc phục thiên tai, tự lực, tự cường xây dựng cuộc sống. Trước chính sách thống trị, khai thác thuộc địa mới của bọn tư bản, thực dân, phong kiến, địa chủ, cuộc đấu tranh của nhân dân Hương Thủy càng quyết liệt hơn. Và cũng từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự du nhập những tư tưởng cứu nước mới, mở rộng quan hệ giao lưu văn hóa, kinh tế và hoạt động của các nhà cách mạng ở Hương Thủy.
Cuối thế kỷ XIX, tuy phong trào Cần Vương chống Pháp với đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do lớp sĩ phu yêu nước lãnh đạo thất bại, song nhân dân Hương Thủy vẫn nuôi chí yêu nước, kiên cường, bất khuất chống thực dân, phong kiến.